Lịch sử Kilt

Các cung thủ người Scotland mặc váy kilt tartan năm 1613

Chiếc váy Kilt xuất hiện đầu tiên vào năm 1538.[5] Chúng được sử dụng như những tấm vải dài mặc bởi những người đàn ông nói tiếng Gael thuộc vùng núi cao nguyên Scotland.Theo một bài viết báo cáo của William Pinkerton năm 1858, trong tài liệu "Trang phục Cao nguyên Trung cổ và người Ailen" (The Highland Kilt and the Old Irish Dress), ông mô tả rằng địa hình thiên nhiên của người dân vùng Cao nguyên và người Ailen cổ đại, thường đi bằng chân trần và mặc một tấm áo choàng rộng thùng thình được nhuộm màu vàng nâu hoặc da .[6] Về điều này, tấm vải cũng hỗ trợ như một chiếc chăn ngủ. Tấm vải quấn lên vai quanh cơ thể và tạo thành những nếp gấp dưới đầu gối.

Khi đó người dân vùng cao nguyên gọi chúng là breacan hoặc filleadh mòr mà ngày nay mọi người gọi là Kilt lớn (tiếng Anh: great kilt)[2]Những chiếc kilt đầu tiên ra đời được ghi nhận thường có màu trắng, màu nâu, màu xanh lá cây và màu đen. Người dân vùng cao nguyên tại Scotland đã sử dụng thực vật, rêu và quả mọng để nhuộm len. Khi kỹ thuật nhuộm và dệt được cải thiện vào cuối những năm 1800, các mẫu dệt kẻ sọc với màu sắc phong phú được phát triển và những thiết kế này gọi chung là vải Tartan.

Những năm 1700-1745

Vào đầu những năm 1700, một thợ may trang phục quân đội người Anh tên là Parkinson, từ Lancashire đến vùng Cao nguyên để xem về trang phục của quân đội tại đây. Bị gặp nạn trong một cơn bão, Parkinson đã lánh nạn tại nhà của một Quakers tên là Thomas Rawlinson, người quản lý một công trình luyện quặng tại Inverness. Rawlinson than phiền với người thợ may Parkinson vì những khó khăn trong tình chiếc kilt quá cỡ và cồng kềnh để luyện quặng sắt và sản xuất than củi. Giải pháp của Parkinson là tách phần vải dài quấn trên vai ra và chỉ để lại một phần vải quấn như chiếc váy.[7] Phần nửa dưới của kilt, tập hợp thành các nếp gấp, thắt ở thắt lưng và dài ngay trên đầu gối. Phát minh ý tưởng này còn gọi là Kilt nhỏ, hiện đại ngày nay.

Vì lý do hiệu quả và thực tế, Rawlinson đã mặc chúng trên cơ thể của ông và sau đó giới thiệu cho những người lao động làm việc. Trong một thời gian ngắn, chiếc Kilt nhỏ trở nên phổ biến tại vùng Cao nguyên, lẫn vùng Đất thấp phía nam của Scotland.[8]

Từ những năm 1745-1800

Minh họa một nhóm người di chuyển trong vùng Cao nguyên, 1730Người phụ nữ mặc chăn choàng dài đến mắt cá chân được gọi là Earasaidean, 1845

Không lâu sau phát minh ra đời của váy Kilt nhỏ, George II của Liên hiệp Anh cố gắng đàn áp văn hóa Cao Nguyên Scotland, và áp đặt bằng Đạo luật Ăn mặc năm 1746.[9] Việc các quân đoàn Cao nguyên Scotland mặc trang phục quân đội giống như bất kỳ trang phục Tây Nguyên, bao gồm cả kilt tartan. Cuộc nổi loạn này được tổ chức bởi vua Charles Edward Stuart, đánh dấu nỗ lực cuối cùng của phái Jacobite để giành lại ngai vàng Anh.

Như trong các cuộc nổi dậy trước đây của phái Jacobite, còn được biết với tên gọi "Nhà tiên tri trẻ" (the Young Pretender)[10] đã giành được sự ủng hộ của nhiều thủ lĩnh vùng cao và các gia tộc chiến binh của họ. Khi những người thuộc phái Jacobite bị đánh bại trong Trận chiến Culloden vào năm 1746, bởi Công tước Cumberland và quân đội của ông. Sau hậu quả của cuộc nổi loạn đó, nghị viện đã quyết định thành lập thêm các trung đoàn Cao Nguyên cho quân đội để định hướng năng lượng của những người nói tiếng Gael, được gọi là "chủng tộc mạnh mẽ và gan dạ".[11]

Năm 1782, thông qua những nỗ lực của Hiệp hội Cao nguyên của Luân Đôn, "Đạo luật Ăn mặc 1746" đã bị bãi bỏ.[12]

Thế kỷ 19

Sự hồi sinh lãng mạn của Kilt đã đạt đến trạng thái như một lời xin lỗi với chuyến thăm cấp nhà nước của Vua George Đệ tứ tới Edinburgh. Ông là quốc vương đầu tiên của Anh mặc trang phục truyền thống Cao nguyên. Bằng cách này Vua George đã thiết lập cho váy Kilt trở thành trang phục thời thượng trong giới quý tộc Scotland.

Trong suốt thế kỷ 19, sự bảo trợ quý tộc tiếp tục cung cấp như một bước đệm cho phong cách trang phục dân tộc, Kilt dần được thông qua trong quy tắc trang phục buổi sáng và tối.

Từ những năm 1840, Kilt đã được thúc đẩy việc sản xuất trang phục Cao Nguyên phổ biến, khi Nữ vương đã được mở rộng tầm mắt bởi Vua George Đệ tứ đến vùng đất Scotland.

Năm 1852, Vương tế Albert đã mua Lâu đài Balmoral ở Aberdeenshire cho vợ là Nữ vương Victoria và bắt đầu mở rộng nơi đây thành Lâu đài phù hợp với Hoàng thất Anh. Các trang trí nội thất trong lâu đài và cũng đáng chú ý nhất là các phòng riêng của nữ vương, đều được trang trí bằng vải Tartan. Chính nữ vương Victoria đã được mặc những chiếc váy dệt tartan của hoàng tộc Steward[13] và tạo ra sọc tartan cho riêng bà, làm dấy lên một xu hướng cho thời trang Tartan trên toàn thế giới.[14]Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ 20, phụ nữ mới đón nhận Kilt như văn hóa thời trang.

Sau Thế chiến II, một phiên bản đơn giản của kilt đã xuất hiện dưới dạng một chiếc váy xếp nếp, ở phần thắt lưng và được trang bị gần mép váy bằng một chiếc ghim lớn. Trang phục kilt cũng phổ biến với phụ nữ thuộc tầng trung lưu và thượng lưu, nó cũng tạo thành một bộ đồng phục của các trường tư lập ở Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ,[15] do đó Kilt duy trì được ý nghĩa của sự giàu có và đặc quyền của giai cấp.

Thế kỷ 20 trở đi

Cuối thế kỷ 20, khi Scotland đạt được một mức độ tự tin về văn hóa và chính trị mới, một nhóm thế hệ thuộc những người Scotland trẻ tuổi đã thể hiện thời trang, văn hóa của riêng họ với áo phông hoặc áo len, áo khoác denim hoặc đôi bốt chunky, mặc dù vẫn giữ được các bản sắc dân tộc.[16]